Thời gian gần đây các phương tiện truyền thông có đưa thông tin về một số trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối.
Nhằm tăng cường công tác quản lý đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối, ngày 06/3/2015 Bộ Công Thương đã có văn bản số 2237/BCT-KH đề nghị UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan quản lý chức năng theo dõi, rà soát để yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài, doan nghiệp có liên quan (nếu có) thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối.
Theo quy định tại Điều 50 Luật Đầu tư số 59/2005/QH11, nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 13 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện góp vốn vào Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc nhận chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên hoặc của chủ sở hữu công ty theo quy định về góp vốn hoặc chuyển nhượng phần vốn góp và đăng ký thay đổi thành viên theo quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 17 và Khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 ngày 03/12/2004, các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 1 Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg ngày 18/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ: “hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong một số lĩnh vực có quy định của pháp luật chuyên ngành hoặc có cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên khác với quy định tại Quy chế này thì thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành hoặc các điều ước quốc tế đó”.
Như vậy, việc nhà đầu tư ngước ngoài tham gia góp vốn, mua cổ phầ trong doanh nghiệp Việt Nam để hoạt động trong lĩnh vực phân phối còn phải thực hiện theo các quy định có liên quan của Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam trong WTO, Luật Thương mại, Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Thông tư số 08/2013/TT-BCT ngày 22/4/2013 của Bộ Công Thương hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP và Lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa công bố tại Thông tư số 34/2013/TT-BCT ngày 24/12/2013 của Bộ Công Thương. Theo đó, sau khi chuyển nhượng vốn góp, cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối sẽ trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Luật Đầu tư năm 2005 và phải thực hiện thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ (nếu có) theo đúng quy định của Nghị định 23/2007/NĐ-CP và Thông tư số 08/2013/TT-BCT
Kể từ ngày 01/7/2015, việc nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối còn phải thực hiện theo các quy định đã được sửa đổi của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 và Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014.
Đình Hiệp – P.CNTT