Báo cáo thống kê Báo cáo thống kê
Hoạt động ngành công thương tháng 11/2019

 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 tăng cao

Theo số liệu vừa được Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu công bố sáng ngày 29/11/2019, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2019 toàn Tỉnh tăng 1% so với tháng trước, tăng 2,65% so với cùng kỳ và tăng 2,84% so với tháng 12 năm trước. Đây là mức tăng khá cao, nguyên nhân dẫn đến CPI tháng 11 tăng là do ảnh hưởng từ dịch tả heo Châu Phi khiến nguồn cung thịt heo giảm, đẩy giá thịt heo và các thực phẩm chế biến từ thịt heo tăng cao. So với tháng trước, trong số 11 nhóm ngành hàng, có 8 nhóm tăng và 3 nhóm giảm. Các nhóm hàng tăng gồm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất (+2,77%); nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (+0,18%); đồ uống và thuốc lá (+0,16%); văn hóa, giải trí và du lịch (+0,15%); thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,14%); giáo dục (+0,1%); may mặc, mũ nón, giày dép (+0,04%); thuốc và dịch vụ y tế (+0,01%). Ba nhóm hàng giảm gồm: giao thông giảm 0,71% do ảnh hưởng của 2 đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào ngày 31/10/2019 và ngày 15/11/2019; bưu chính viễn thông giảm 0,02%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,1%.      

Không nằm trong rổ tính CPI, chỉ số giá vàng tháng 11 giảm 8,04% so với tháng trước, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11 giảm 0,01% so với tháng trước.

 

Người dân mua thịt heo tại chợ Rạch Dừa – TP.Vũng Tàu (Ảnh nguồn Internet)

Tổng doanh thu thương mại dịch vụ tháng 11 năm 2019 ước 13.013,57 tỷ đồng, tăng 9,75% so với cùng kỳ; Lũy kế 11 tháng ước 137.754,65 tỷ đồng, tăng 9,67%, trong đó doanh thu thương mại 95.585,44 tỷ đồng, tăng 10,41% và doanh thu dịch vụ 42.169,21 tỷ đồng, tăng 8,04%.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 11 năm 2019 ước 3.652,03 tỷ đồng, tăng 13,38%; Lũy kế 11 tháng ước 42.011,74 tỷ đồng, tăng 14,07%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trừ dầu thô và khí đốt tiếp tục duy trì tăng trưởng với mức tăng 9,03% trong 11 tháng năm 2019

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trừ dầu thô và khí đốt tháng 11/2019 ước tăng 19,76% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng đầu năm 2019, Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trừ dầu thô và khí đốt ước tăng 9,03% so với cùng kỳ, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 12,98%; ngành khai khoáng tăng 6,02%; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 4,03%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,02%.

Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh (tính theo giá so sánh 2010) trong tháng 11 năm 2019 ước 42.326,11 tỷ đồng, tăng 2,48% so với cùng kỳ; giá trị sản xuất công nghiệp trừ dầu thô và khí đốt ước 23.958,04 tỷ đồng, tăng 10,47%. Trong 11 tháng năm 2019, Giá trị sản xuất công nghiệp ước 452.683,23 tỷ đồng, tăng nhẹ 3,6% so với cùng kỳ nguyên nhân chủ yếu do giá trị sản xuất dầu thô và khí đốt giảm 2,47%; trong đó Giá trị sản xuất công nghiệp trừ dầu thô và khí đốt chiếm tỷ trọng 55,59% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn Tỉnh, tương đương 251.650,97 tỷ đồng, tăng 9,02%.  

 

Sản xuất thép cuộn tại Nhà máy thép SMC – KCN Phú Mỹ 1, TX Phú Mỹ (Ảnh nguồn Internet)

Trong 11 tháng đầu năm 2019, Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu còn lại đều tăng từ 0,47% (Khí đốt) đến 71,91% (Phân NPK) như: Báo và các sản phẩm in ấn (+ 41,63%), tế bào quang điện (+41,05%), bia các loại (+40,65%), giấy và bìa (+35,65%), quần áo may sẵn (+33,64%), giày các loại (+25,49%), cấu kiện kim loại (+25,22%), nhựa các loại (+20,97%), sợi (+20,44%), kính (+15,13%), hải sản chế biến (+13,15%), sắt thép các loại (+8,47%)...Bên cạnh đó, có 02 sản phẩm có sản lượng giảm, Phân đạm (ure) giảm 25,09% do Nhà máy Đạm Phú Mỹ bảo trì, ngưng sản xuất trong 3 tháng (tháng 2, 3 và 4 năm 2019); Dầu thô giảm 7,28% do kết quả thăm dò dầu khí trong thời gian gần đây phần lớn đều là các mỏ có trữ lượng nhỏ, cùng với việc giá dầu thấp nên hiệu quả kinh tế không cao, dẫn đến số lượng công trình khai thác mới đưa vào để bổ sung có sản lượng rất ít.

Hoạt động xuất nhập khẩu

Kim ngạch xuất khẩu toàn Tỉnh tháng 11 năm 2019 tăng 51,33% so với cùng kỳ, tương đương 695,56 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu trừ dầu thô ước 451,08 triệu USD, tăng 63,76%.

Trong 11 tháng năm 2019, Kim ngạch xuất khẩu toàn Tỉnh tăng 12,48% so với cùng kỳ, đạt 7.038,87 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu trừ dầu thô ước 4.449,09 triệu USD, tăng 14,10%; trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu trừ dầu thô (61,98%), tăng 15,56%; khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước chiếm tỷ trọng 38,02%, tăng 11,79%.  

 

Công nhân Công ty TNHH Sản xuất giày Uy Việt trong giờ sản xuất (Ảnh nguồn Internet)

Về ngành hàng xuất khẩu, Nhóm hàng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp vẫn là nhóm hàng xuất khẩu chính của Tỉnh, đóng góp 95,63% kim ngạch xuất khẩu trừ dầu thô, tương đương 4.254,78 triệu USD, tăng 14,98% so với cùng kỳ (trong đó trị giá xuất khẩu của nhiều nhóm hàng đạt tốc độ tăng trưởng cao như: Chất dẻo nguyên liệu 260,8 triệu USD tăng 3,6 lần; Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù tăng 2,1 lần với 24,8 triệu USD; Sản phẩm từ sắt thép 472,83 triệu USD tăng 1,7 lần; Hàng dệt may 1.199,76 triệu USD tăng 56,09%; Giày dép các loại tăng 31,02% với 178,3 triệu USD...). Tiếp đến là Nhóm thủy sản chiếm tỷ trọng 3,41% với 151,82 triệu USD, tăng 4,11%. Nhóm nông lâm sản chiếm 0,95% về tỷ trọng với 42,49 triệu USD, giảm 19,89%.

Kim ngạch nhập khẩu toàn Tỉnh tháng 11 năm 2019 ước 489,16 triệu USD, tăng 45,73% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng năm 2019 ước 5.674,86 triệu USD, tăng 12,94%; trong đó, nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn (75,22%) trong tổng kim ngạch nhập khẩu toàn Tỉnh, tăng 5,94%; khu vực doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm tỷ trọng 24,78%, tăng 41,29%.

Ngành hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là nguyên nhiên liệu và vật tư cho sản xuất, chiếm đến 82,3% tổng kim ngạch nhập khẩu với 4.670,23 triệu USD, tăng 6,1%; Nhập khẩu máy móc thiết bị và phụ tùng ước đạt 994,59 triệu USD, chiếm 17,53% về tỷ trọng, tăng 63,76%; Nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ chiếm 0,18% về tỷ trọng với 10,05 triệu USD, giảm 35,87%.  

Cung cấp điện ổn định Trong 11 tháng năm 2019, sản lượng điện thương phẩm ước đạt 6.032.635.000 kWh tăng 3,1% so với cùng kỳ (trong đó tháng 11 ước đạt 552.357.000 kWh, tăng 3,4%).

Anh Thy – P.KH-TC-TH